Chiến hạm Gepard 3.9 "Đinh Tiên Hoàng” có khả năng tàng hình, tìm kiếm, theo dõi và tiêu diệt các mục tiêu trên không, trên biển và chống ngầm, đồng thời có thể tích hợp hàng loạt các loại vũ khí hiện đại khác.
Tầu tuần biển Đinh Tiên Hoàng
Vào những năm đầu của thập niên 1980 x- Lực lượng hải quân Nga có yêu cầu thế hệ tầu tuần biển mới phục vụ cho nhiệm vụ quản lý biển và khu vực bờ biển. Đấy cũng là yêu cầu làm thay đổi thiết kế mẫu tầu tuần biển tên lửa frigate Nheustrasim dự án 11540 trong việc ra quyết định cuối cùng để giải quyết các nhiệm vụ trên biển, với mô hình tầu khu trục biển nhằm thay thế cho các tầu khu trục nhẹ dự án 1135 ( Burevetnhik). Đồng thời cùng với nhiệm vụ đó, Trung tâm thiết kế tầu tại nước cộng hòa Tatarstan đã thiết kế loại tầu tuần biển nhỏ hơn mang tên lửa, đó là Dự án 11660 Gepard. Nhà thiết kế chính là Iu.A. Nhicol, sau đó là V.N.Kaskin nhằm thiết kế tầu tuần biển có khả năng chống ngầm và đánh chặn tầu nổi theo dự án 1124.
Sơ đồ khối tầu tuần biển
Yêu cầu của Hải quân Liên bang và hạm đội là lắp đặt trên tầu một đài quét sonar công suất lớn, có khả năng thực hiện nhiệm vụ chống ngầm hiệu quả, đồng thời tăng lượng giãn nước của tầu lên đến hơn 2000 tấn bằng việc tăng các khoang chống thấm nước trên thân tầu. Thời điểm đó xuất hiện một dự án cạnh tranh là dự án 12441 của "Trung tâm thiết kế tầu biển Almaz” với các tên lửa chống tầu mạnh và khả năng mang theo máy bay trực thăng tuần biển và cứu hộ. Cuối năm 1988 Almaz đưa ra dự án tầu SKP 11660, nhưng được một thời gian, chương trình đóng loại tầu này đã khép lại do lý do tài chính.
Model tầu Gepard 3.9
Kết quả là Trung tâm thiết kế tầu PKB Zeliondonsk đã thiết kế một số mẫu nâng cấp tầu tuần biển tên lửa, trong đó có những mẫu dành cho xuất khẩu-dự án 1166.1 Gepard. Trên cơ sở các thiết kế đã có trung tâm PKB tiền hành xây dựng mẫu tầu Gerpad 3.9 tại nhà máy đóng tầu Zeliondonsk mang tên Gorki. Chiếc tầu đầu tiên của họ Gepard được bắt đầu vào năm 1993 tại nhà máy và đến năm 1995 tầu đã sẵn sàng đưa vào thử nghiệm, nhưng do lý do tài chính, quá trình đóng tầu bị tạm dừng từ 1994 đến 1996. Năm 2001 tầu họ Gepard mang tên Tatarstan được biên chế vào hạm đội và trở thành tầu chỉ huy của hải đội biển Caspian, chiếc tầu thứ 2 của dự án 1166.1 Dagestan được hạ thủy vào năm 2007. Giai đoạn này, 2 chiếc tầu tiếp theo của mẫu tầu tuần biển Gepard 3.9 được đóng theo đơn đặt hàng của Hải quân Việt nam từ 2009 đến 2011.

Sơ đồ thiết kế Tatarstan
Mục đích yêu cầu nhiệm vụ
Tầu tuần biển loại Gepard 3.9 lớp Tatarstan dự án 11661 được thiết kế thực hiện các nhiệm vụ chống tầu ngầm, tầu nổi và các mục tiêu trên không của đich khi thực hiện các nhiệm vụ hộ tống các tầu chiến, các tầu vận tải, các đoàn tầu cơ động, tiến hành các nhiệm vụ cảnh giới biển, bảo vệ hải giới và thềm lục địa, bảo vệ các khu vực kinh tế biển và bảo vể các khu vực biển gần. Vũ khí trang bị và phương tiện kỹ thuật của tầu cho phép thực hiện các nhiệm vụ được giao với hiệu quả cao nhất. Đồng thời, các thiết kế kỹ thuật phải cho phép tầu có khả năng nâng cấp và cải tiến trên cơ sở thân tầu.
Thông số kỹ chiến thuật
Thiết kế của tầu được thực hiện với các mặt phẳng truyền thống với 12 khoang không thấm nước, khả năng tầu vẫn hoạt động tốt nếu có 3 khoang bị trúng đạn tách rời nhau, các thiết kế trên boong tầu được chế tạo từ vật liệu tổng hợp nhôm ma-gie có khả năng hấp thụ đến tối thiểu mức phản xạ hiệu dụng của sóng radar ( công nghệ stealth) tầu được lắp động cơ nguồn diezen và 2 động cơ gaz tuốc bin 2 trục cho công suất tâu lên đến 29000 mã lực. hệ thống động lực kiểu CODOG bao gồm động cơ diezen loại 61D ( 8000 mã lực) đảm bảo cho tầu chạy ở tốc độ hành trình 18 hải lý/giờ, 2 động cơ tuocbin khí gas có thể đẩy vận tốc tối đa của tầu lên đến 28 hải lý/giờ. Có 3 máy phát điện diezen 600 kVh cho mỗi máy phát.

Hệ thống động lực thân tầu

Mô hình động cơ đẩy
Để tăng cường khả năng cơ động và tác chiến độc lập của tầu trên biển, các nhà thiết kế đã tăng cường khả năng hải trình của tầu từ 9 ngày ( không phải bổ xung nhiên liêu và cơ sở vật chất) lên đến 20 ngày và tầm hoạt động với tốc độ hải trình 18 hải lý/giờ là từ 2500 hải lý lên 3500 hải lý. Tầu được tranh bị hệ thống tên lửa chống tầu thế hệ mới nhất XЗ5 3M24 Uran, tăng cường khả năng tác chiến của tầu so với các loại tầu tuần biển khác. hệ thống sonar MGK-335EM-03 có góc quét 260 độ, phát hiện được tàu ngầm ở bán kính từ 10 đến 12 km và thủy lôi ở cự ly 2 km và 2 thiết bị phóng ngư lôi cỡ nòng 533 mm.
Vũ khí trang bị
Tên lửa đối hạm
• 4x4 ống phóng tên lửa đối hạm Uran-E Kh-35 (16 quả 3M24, tầm bắn 130km)

Thông số kỹ chiến thuật
Tầm hoạt động của tên lửa km |
5-130 |
Tầm cao cơ động/tầm cao tấn công, m |
5-10/3-5 |
Tốc độ tên lửa hành trình, m/s |
до 300 |
Góc mở cơ động của tên lửa, độ. |
+ 90 |
Độ chính xác dẫn bắn (КВО), m |
4-8 |
Tải trọng cất cánh (với động cơ tăng tải), kg |
480 (680) |
Khối lượng đầu đạn, kg |
145 |
Chiều dài tên lửa (có động cơ tăng tốc), m |
3,75 (4,4) |
Đường kính tên lửa, m |
до 0,42 |
Sải cánh, m |
0,93 |
Tầm quét của radar tự dẫn РГС, km |
20 |
Dải nhiệt độ hoạt động của tên lửa, độ. |
-50 - +50 |
Radar tự dẫn đầu đạn tên lửa chống hạm
Tên lửa chống tầu
Pháo hạm

• 1 pháo chính 76.2mm AK-176M
• Hệ thống pháo/tên lửa phòng không Palma, tầm bắn tối đa với tên lửa 8,000m, đối với pháo là 4,000m, được điều khiển bằng quang-điện và hỗ trợ dữ liệu từ radar.
• 2 súng máy phòng không 14.5mm

• Hệ thống phóng bom ngầm RBU-6000 với 12 ống
• Hệ thống kiểm soát hỏa lực chống ngầm Purga
• Hệ thống SP-521 Rakurs radar – sonar điều khiển tầu
Trực thăng
• Ka-28 ASW chống ngầm (hoặc Ka-31 mang radar chuyên nhiệm cảnh báo sớm) có hangar (khoang chứa) và bãi đậu.
Hệ thống tác chiến điện tử
• Hệ thống MP-407E ECM system
• Hệ thống mồi bẫy PK-10 (4x10 ống phóng)
Thiết bị định vị
• Hệ thống định vị Gorizont-257 kết hợp cùng radar Gorizont-25
• Hệ thống EKNIS MK-54IS và GPS NT200D
Hệ thống quản lý thông tin tác chiến
• Hệ thống Sigma-E
Hệ thống nhận dạng mục tiêu
• Thiết bị 67R IFF
Thông tin liên lạc
• Hệ thống thông tin liên lạc tự động Buran-6VE
Thiết bị điện tử - radar
Radar mảng pha 3 chiều trinh sát mục tiêu trên không và trên biển Pozitiv-ME1 tầm trinh sát tối đa 150km trong điều kiện biển động cấp 3; có thể phát hiện mục tiêu bay có diện tích phản xạ radar 1m2 bay ở độ cao 1000m từ khoảng cách 110km; có thể phát hiện mục tiêu là tên lửa đối hạm có diện tích phản xạ radar 0,03m2 bay ở độ cao 15m từ khoảng cách 15km. Có thể bám cùng lúc 3-5 mục tiêu. Có thể phát hiện mục tiêu là tàu nổi có diện tích 10,000m2 từ ngoài đường chân trời.
Lượng rãn nước đầy tải: 2,100 tấn
Kích thước ngoài (dài x rộng x mớn nước): 102.2 x 13.1 x 5.3m
Tốc độ tối đa: 28 hải lý/h, tốc độ hành trình: 18 hải lý/giờ
Tầm hoạt động ở tốc độ hải trình tuần biển: 5,000 hải lý
Dự trữ nhiên liệu hoạt động: 20 ngày
Sử dụng vũ khí không hạn chế trong điều kiện biển động tới cấp 5
Động cơ chính: 2x11,000hp
Thủy thủ đoàn: 103 người với 16 vị trí dự trữ dành cho hải quân đặc nhiệm
Sưu Tầm
- Bệ phóng tích hợp vũ khí (28/06/2011)
- Tìm hiểu về Hàng không mẫu hạm (Aircraft Carrier) (26/06/2011)
- GFAS - Hệ thống phát hiện kẻ địch mới trên trực thăng chiến đấu Apache (13/06/2011)
- BAE Sytems phát triển thế hệ thứ 2 loại nón HEADS dành cho quân đội (07/06/2011)
- Một người lính có thể mang theo cả một nhà máy phát điện trên lưng? (07/06/2011)
- Quân đội Mỹ tạo ra bước đột phá trong chuyển động (07/06/2011)
- Taranis - máy bay chiến đấu không người lái mới của quân đội Anh (07/06/2011)
- Tầu chiến tuần duyên (LCS) (06/06/2011)
- RAPS - Thiết bị câu điện dành cho quân đội (30/05/2011)
- Super aEgis II: Súng máy tự động tiêu diệt mục tiêu của Hàn Quốc (27/05/2011)
- Hải quân Mỹ thử nghiệm thành công hệ thống phóng máy bay bằng điện từ (27/05/2011)
- Phát minh phổ kế mới nhằm phục vụ cho công tác tẩy rửa phóng xạ (27/05/2011)
- Người máy sẽ ra chiến trường (27/05/2011)
- Ngăn sự hạ thân nhiệt để giảm thương vong trên chiến trường (27/05/2011)