Chiến dịch Hòa Bình – đường số 6 kết thúc thắng lợi,cuối năm 1952 chúng ta đã mở thong tuyến bàn đạp nối liền với đồng bằng Bắc Bộ với chiến trường Tây Bắc rộng lớn.Từ đó,quân ta tiến lên Tây Bắc và chiến đấu trên vùng chiến trường Thượng Lào là vùng xung yếu về mặt chiến lược của giặc Pháp.
Sau khi quân ta chiến thắng oanh liệt, tiêu diệt hoàn toàn đồn Tu Vũ, chiến dịch Tây Bắc được mở màn vào ngày 14 tháng 10 năm 1952.
Trong khi các Đại đoàn 316 và 312 đánh tiêu diệt các vị trí Ca Vịnh và Sài Lương,Đại đoàn 308 được lệnh tiến về bao vây Nghĩa Lộ.
Trung đoàn 88 của chúng tôi được lệnh tiêu diệt đồn giặc ở Nghĩa Lộ phố-còn Trung đoàn 102 tấn công Nghĩa Lộ đồi.
Căn cứ Nghĩa Lộ phố bên A(mặt Bắc, Nam,Tây đều là ruộng nước và đồi trọc, dân cư ở phía Đổngất đông đúc). Địch tổ chức nhiều trạm cảnh giới nhỏ gây khó khăn cho việc tổ chức tân công của quân ta.
Các đơn vị đã lợi dụng pháo sang của địch tiến nhanh vào vị trí xuất phát xung phong.
3 giờ sang ngày 18 tháng 10 năm 1952, trung đoàn hạ lệnh cho các đơn vị chuẩn bị sẵn sang phát hỏa. Đại đội 209 nghe lầm, truyền cho tiểu đoàn 23 thành “lệnh phát hoa”, nên đơn vị đã đánh ngay 5 quả bộc phá mở đột phá khẩu.
Trước tình hình đó, trung đoàn trưởng lập tức hạ lệnh nổ súng tấn công.
Tôi dẫn đại đội 211 đánh sang phía tiểu đoàn 29, chiếm lĩnh lô cốt đầu cầu, tạo điều kiện cho đại đội Tô Văn tiến lên mở cửa. Đại đội trưởng Lê Trần Quang cùng các chiến sỹ hành động mau lẹ, cắt gọn từng lớp dây thép gai.
Quân địch chống trả quyết liệt. Chúng hy vọng máy bay đến chi viện cùng với quân dù ứng cứu. Quân ta dung trung liên áp chế, tạo thời cơ cho bộ đội bắc ván trải chăn, vượt qua hang rào kẽm gai, xông thẳng vào đồn giặc.
Trung đội trưởng Phạm San nhanh chóng dẫn đội đột kích 1 nhảy vào chiếm ngay ụ sung địch, trung đội phó Bùi Thế Miến dẫn đội đột kích 2 vào theo, chiếm ngay luôn 2 căn nhà trước mặt. Quân địch lập tức châm lửa vào thùng xăngđốt ngay căn nhà sát liền đó, tạo thành bức tường lửa ngăn chặng quân ta. Đồng chí Bùi Thế Miến bị súng máy bắn trúng, tay phải gãy lủng lẳng. Anh nghĩ tới tấm gương của La Văn Cầu, can đảm, bình tĩnh bảo một chiến sỹ:”Lưỡi lê đâu, chặt cánh tay mình đi cho khỏi vướng!”. Xong, anh buộc chặt phần cánh tay còn lại tiếp tục chỉ huy chiến đấu.
Các mũi tấn công của quân ta mạnh nhưng địch chống trả quyết liệt. Trung đoàn lệnh tổ chức lại đội hình, chia khu trung tâm thành đôi, mỗi tiểu đoàn đánh địch trong từng khu vực.
Tôi được lệnh dẫn một trung đội xung kích thọc sâu vào đánh bộc phá trong lô cốt Múi Khế cuối cùng của đồn giặc. Trong lô cốt có một tên lính Mẹo bị xích chân vào khẩu đại liên, nó chống cự đến cùng. Ngay khi tôi cùng các chiến sỹ đánh bộc phá thì DKZ lại bắn thẳng vào hỏa điểm, làm tôi trúng mảnh đạn và sức ép, bị thương nặng.
Trận Nghĩa Lộ phố kết thúc lúc 5 giờ 30 phút sáng. Đây là trận đánh công kiên điển hình về thời gian quân ta chuẩn bị nhanh, tiêu diệt gọn và ít thiệt hai.
Trong Đông- Xuân 1952-1953, nổi bật lên là 2 trận đánh lớn mang tính chiến dịch, đó là trận đánh tập đoàn cứ điểm Nà Si- Nà Sản.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ở Bắc Bộ, lần đầu tiên cũng là lần duy nhất quân chủ lực của ta thất bại tại Nà Sản. Sau cả hai đợt tập trung sức mạnh cao của các đơn vị bộ đội chủ lực đánh vào Nà Sản,chúng ta đều không giải quyết được chiến trường.
Đại đội tôi bấy giờ tiến công Nà Si. Nà Si-Nà Sản cùng một số đồn bốt, bãi mìn, lô cốt liên hoàn phụ cận ở vùng Thượng Lào này lập thành tập đoàn cứ điểm chiếm đóng, kiểm soát, kiềm chế một vùng chiến lược rộng lớn. Rút kinh nghiệm những khó nhăn thất bại ở Nà Sản, trong trận công kiên đánh đồn diệt giặc rất quyết liệt ở Nà Si, chúng tôi đã cùng các đơn vị bạn hợp đồng tác chiến dũng mãnh và chặt chẽ, làm quân địch không chống cự nổi. Lần đó tôi bị thương nặng khi vào đặt bọc phá đánh cửa mở bị sức nổ mạnh hất xuống suối cạn, nằm bất tỉnh. Tôi mê man nằm nằm cạnh một đồng chí tổ trưởng xung kích đã bị tử thương. Sau 3 ngày đêm đơn vị mới trở lại tìm kiếm, đón được tôi về căn cứ, thì xác đồng chí ấy đã trương sình, thối rữa…
Lúc ấy, hình ảnh đồng chí liệt sỹ và cảnh tượng chiến trường mịt mù khói lửa sau khi quân ta tiêu diệt được đồn giặc rút đi, tôi chỉ còn mơ màng thoáng nhớ thoáng quên để rồi sau đó ngất lịm đi như một cái xác chết. Người ta thường cho tôi là”cao số”, nhưng sau này suy nghiệm lại, mình sống được sau 3 ngày đêm một phần là do cơ thể và sinh lực của tuổi trẻ đang độ sung mãn, tiềm tang, lại nhờ có những cơn mưa nhỏ mát dịu về ban đêm dội lên thân thể.